RMS là viết tắt của Running mortality Syndrome – Hội chứng tử vong liên tục trên tôm, hay còn được gọi là Hội chứng tôm chết kéo dài, là một tình trạng được biết đến. Tình trạng này xuất hiện khi tỷ lệ tử vong của tôm bắt đầu tăng sau một tháng hoặc 40 ngày nuôi.
Một số tôm sống sót và tiếp tục tồn tại, có thể phát triển đến kích thước thu hoạch đầy đủ. Tôm bị ảnh hưởng thường có các mảng cơ trắng xuất hiện trong các phân đoạn bụng, được coi là một dấu hiệu lâm sàng. cùng tomthechantrang.vn tìm hiểu chi tiết trong bài viết dưới đây.
Nội dung
Nguyên nhân hội chứng tử vong liên tục (RMS) trên tôm
Tôm bị ảnh hưởng trong trường hợp này không có liên quan đến bất kỳ tác nhân gây bệnh nào đã được biết đến trước đây, ví như như vi khuẩn hay virus. Nguyên nhân chính gây ra hội chứng này là do quản lý ao nuôi kém. Tình trạng tôm chết có mối liên hệ với các tham số chất lượng nước không thuận lợi. Các chỉ số môi trường trong ao nuôi bị nhiễm bệnh RMS như tổng amoniac, nitrit và độ đục có mức độ cao hơn so với giá trị tối ưu cho sự phát triển của tôm.
Có thể bạn quan tâm
Kiểm tra vi khuẩn trong chất lỏng của hệ tuần hoàn và gan tụy của tôm mắc RMS cho thấy sự xuất hiện của nhóm Vibrio spp., bao gồm Vibrio parahaemolyticus và Vibrio azureus. Các loại vibrio này thường được coi là tác nhân gây bệnh thứ cấp và có khả năng gây tử vong cho tôm khi môi trường nước trở nên xấu đi.
Tham khảo thêm sản phẩm Anti Vibrio Santa – Ngăn chặn vi khuẩn vibrio
Triệu chứng của RMS trên tôm
- Tôm mắc bệnh thể hiện qua việc xuất hiện các mảng cơ trắng trong phần bụng, là dấu hiệu lâm sàng.
- Râu tôm bị đứt và các đốt đuôi gai đuôi chuyển sang màu đỏ. Sau đó, phát hiện rằng gan tụy của tôm bắt đầu chuyển sang màu đỏ vàng, và cuối cùng, toàn bộ cơ thể tôm chuyển sang màu đỏ đậm.
- Tỷ lệ tử vong duy trì ở mức thấp và kéo dài liên tục, đặc biệt là sau khoảng 35-40 ngày nuôi. Tỷ lệ tôm chết là khá cao trong các ao nuôi nước mặn thấp.
- Tôm chết chìm xuống đáy ao và di chuyển lơ đời tấp nập trong ao.
- Vấn đề về phân có màu trắng hoặc vàng cũng được quan sát trong ruột. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong cao được báo cáo trong tôm có liên quan đến nhiễm vi khuẩn Vibrio với mức độ cao.
Cách phòng trị
Hiện tại chưa có phương pháp điều trị cụ thể, tuy nhiên, việc thực hiện quản lý chất lượng nước tốt sẽ giúp ngăn ngừa tình trạng này.
Trong giai đoạn ban đầu, nông dân hãy kiểm soát tình trạng này bằng cách thường xuyên loại bỏ tôm chết khỏi ao và giảm lượng thức ăn cho tôm trong vài ngày, điều này giúp giảm tỷ lệ tử vong.
Các hoạt động nuôi tôm như chuẩn bị ao nuôi tốt, lựa chọn giống tôm chất lượng, duy trì mật độ thả tôm thấp, quản lý sạch ao nuôi, duy trì các chỉ số chất lượng nước như:
- Mức oxy hóa (DO) tối ưu (trên 4 ppm).
- PH (7,8-8,2), alkalinity (80-150 ppm).
- Độ mặn (trên 10 ppm).
- Sử dụng các chế phẩm sinh học định kỳ.
- Duy trì chất lượng nước.
- Thu hoạch theo từng đợt.
- Thực hiện quản lý thức ăn nghiêm ngặt.
- Sử dụng axit hữu cơ trong thức ăn và thực hiện nuôi ghép, để giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh.
Khi duy trì nước với các chỉ số hóa lý tối ưu, tôm bị ảnh hưởng đã cho thấy sự phục hồi trong vòng 6-7 ngày. Sự phục hồi của tôm bị ảnh hưởng được quan sát trong điều kiện môi trường tối ưu.